
Có những lúc lòng tôi tê tái lạ:
Thầm nghĩ rằng ngày nào đó ra đi,
Hơi thở cuối ấp úng tiếng “biệt ly”,
Mắt nhắm lại, không bao giờ mở nữa,
Thân xác này theo ngày tháng thối rữa,
Mối giun vui gậm nhấm tận tuỷ xương,
Nấm mồ im trơ trọi cùng gió sương,
Nghĩa địa buồn… ôi sao thê thảm quá!
Nhưng…
Có những lúc lòng tôi phấn khởi lạ:
Nghĩ đến Ngài, Ðấng Khải Hoàn Phục Sinh,
Thân xác này sẽ có ngày hiển vinh,
Theo lời Ngài đã yêu thương nhắn nhủ,
Như “Hạt Lúa” chấp nhận được chôn ủ
Trong đau thương, sẽ nứt mộng trổ bông,
Ðời Tin Yêu, dù nước mắt lưng tròng,
Vẫn thấy đẹp Tương Lai ngời Ánh Sáng.
***
Thân xác! Thân xác tôi! Thân xác con người!...
Xét về phương diện thể chất, thân xác con người không đáng giá bao nhiêu!
Theo ước tính của một nhà bác học Mỹ, thì thân xác chứa đủ:
- chất nưóc để giặt một tấm chiếu
- chất sắt (trong hồng huyết cầu) để làm 7 chiếc đinh nhỏ
- chất vôi để quét trắng tường một căn phòng,
- chất phốt-pho để làm một hộp quẹt (hộp diêm)
- chất muối để kho một xoong thịt
- chất than chì, nếu xác được thiêu thành than, để làm 65 ruột cây viết chì
Tổng cộng: thân xác con người đáng giá trên dưới một mỹ kim.
Cảm nghĩ về thân xác, Huy Cận có những lời thơ ray rứt:
“A! Thân thể! Một cái bình tội lỗi!
Ðất sơ sinh đã hoá lại bùn lầy…
Nếu Chúa biết bao nhiêu lòng hốt hoảng,
Trong sầu đen đã gãy cánh như dơi;
Nếu Chúa biết bao nhiêu giòng lệ đắng
Chảy như sông, không rửa sạch sầu đời;
Nếu Chúa biết bao nhiêu hồn ly tán
Vì đã nâng bình lửa ấp trên môi:
Thì hẳn Chúa cũng thẹn thùng hối hận
Ðã sinh ra thân thể của con người”.
Sống Mùa Phụng vụ của Hội Thánh, trong tháng “Kính nhớ Các Ðẳng Linh Hồn”, tôi “gia tăng việc lành phúc đức, dâng lời kinh” cầu nguyện cho các Ngài; đồng thời tôi cũng nghĩ đến số phận tôi, định mệnh chung của con người: “Ngày nào đó, tôi sẽ ra đi, thân xác này sẽ nằm xuống rồi lặng im tàn lụi!”
Trong thực tế, tôi đã có dịp gần gũi những bệnh nhân trưóc khi họ chết, đang khi chết, và ít gìờ sau khi chết. Có những bệnh nhân chết cách “rất lành thánh”, nghỉ yên trong Tình Yêu Chúa, sự bình an tỏ lộ trên khuôn mặt… Nhưng, cách chung, thân xác nào cũng như thân xác nào: hai ba tiếng đồng hồ sau hơi thở cuối cùng, đều trở thành lạnh ngắt cứng đờ, và rồi, vì lý do vệ sinh, bó buộc người ta phải chuyển xuống nhà xác đặt trong phòng lạnh…
Tôi đã có dịp chứng kiến sự “chuyển hoá từ sự sống sang sự chết”, đã cảm giác thế nào là “khía cạnh đau đớn nhất” của thân phận con người!...
Viết đến đây, tôi nhớ đến chuyện của một người bạn tình cờ quen biết. Anh tâm sự: không hiểu sao mỗi lần xuống hầm thành phố lấy mêtrô, xe điện ngầm, anh đều cảm thấy nghẹt thở rồi toát mồ hôi lạnh. Ðã 3 năm nay, nhờ bác sĩ tâm bệnh kiếm tìm nguyên do nhưng vẫn chưa kiếm ra. Tôi xin anh kể lại những gì đã xảy ra trong đời anh cách đây 3 năm, nhất là biến cố đã làm anh rúng động nhất… Và cuối cùng, chúng tôi đã tìm ra: hồi đó, đưa xác người em gái 20 tuổi, chết vì bệnh ung thư. Ðứng trước quan tài em, trước khi hạ huyệt, anh rùng mình hoảng sợ, nghĩ rằng: chỉ hai ba ngày sau, trong quan tài im lặng này, trong nấm mồ im lặng này, thân xác em anh sẽ thối rữa tàn lụn… Rồi cảm giác ớn lạnh ấy vô tình ám ảnh, làm cho anh mỗi lần xuống hầm lấy mêtrô, đều bị nghẹt thở, toát mồ hôi lạnh, vì… mêtrô có hình thù như cỗ quan tài, khép chặt, đóng kín, chứa đựng, đưa anh đi hoang mang dưới hầm mặt đất…
Vâng! Trước sự chết, là “con người tự nhiên”, bình thường thì ai cũng có phần “ái ngại, hoang mang”! Không hoàn toàn “sợ chết” chăng nữa, nhưng cũng “ớn lạnh, rùng mình, hoảng sợ” khi mường tượng đến “sư tàn lụi” của thân xác, thân xác mình, một “tác phẩm” mà mình đã cô gắng bằng mọi cách chăm sóc, gìn giữ, xây dựng trọn cả cuộc đời…
Xuân Diệu, một thi sĩ rất yêu đời, nhưng tình yêu đời của ông vẫn không đủ sức mạnh lấn áp nổi “ám ảnh sự chết”, ông thú nhận:
“Nhưng mà tôi sẽ chết, than ôi!
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời,
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất,
Hai tay chín móng bám vào đời!
Kẻ uống tình yêu giập cả môi
Nhưng mà tôi sẽ chết, than ôi!
Tóc ngời mai mốt không đen nữa,
Tuổi trẻ khô đi, mặt xấu rồi.
Tôi run như lá, tái như đông,
Trán chảy mồ hôi, mắt lệ phồng.
Năm đẩy, tháng dồi, tôi sẽ đến
Trước bờ lạnh lẽo của hư không”
Có giai đoạn, tôi cũng có cảm giác “ớn lạnh của con người tự nhiên” này, như đã thú nhận trên đây, trong lời mở đầu. Nhưng rồi “cảm giác tự nhiên này” biến tan, nhường chỗ cho tâm tình phấn khởi tin yêu, khi tôi suy gẫm thấm thía “Dụ Ngôn Hạt Lúa”, Chúa đã yêu thương nhắn nhủ trước khi Ngài buớc vào “Cuộc Thương Khó, chịu chết, dâng mình làm Của Lễ Ðền Tội, cứu chưôc nhân loại” (x. Ga 12,24-25).
Tâm hồn tôi lại được phấn khích thêm bởi lời Thánh Phaolô tha thiết nhắc nhở:
Phần chúng ta, chúng ta có quê hương trên trời,
Nơi chúng ta sẽ gặp Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô,
Ngài sẽ biến đổi thân xác mọn hèn chúng ta
Nên giống thân xác vinh hiển của Ngài,
Vì Ngài có quyền bắt muôn vật phải phục tùng.”
Quả thật, tin yêu Chúa Kitô Phục Sinh, là Kitô hữu đồ đệ thân thương của Ngài, chúng tôi không có lý do chính đáng sợ chết nữa. “Chết!” đối với Kitô hữu là một cuộc “qua đời”: từ đời sống tạm bợ trần gian này, đi vào đời sống vĩnh cữu. Chúng tôi cũng không còn lý do để “hoảng sợ, ớn lạnh” khi mường tương đến sự “tàn lụi” của thân xác nữa, vì nhìn nhận rằng: “sự tàn lụn” của thân xác là “điều tự nhiên, theo luật tự nhiên, của mọi sinh vật thụ tạo”… Vả lại, sự “tàn lụn” của thân xác con người chỉ là “tạm bợ” đang khi chờ ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Ngài sẽ phục sinh thân xác chúng tôi…
Sự phục sinh thân xác là một Mầu nhiệm Ðức tin. Mầu nhiệm là chân lý vượt quá mọi tầm hiểu biết của con người. Tôi không bao giờ thích lý luận trên mầu nhiệm, mà chỉ muốn đơn thành kính tin.
Mới đây, đọc một đoạn sách kể chuyện “con sâu róm (chenille) ngủ yên trong tổ một thời gian, lột xác hoá thành bướm”, tự nhiên tôi cảm nhận “Ánh sáng Mầu nhiệm Phục sinh” rạng ngời trong tôi: “Chúa quyền phép vô cùng, làm được tất cả những gì Ngài muốn. Ngài đã tạo dựng muôn vật từ “hư không”, thì có khó gì đối với Ngài, nếu Ngài muốn phục sinh thân xác con người”. Tôi kính tin: Ngài sẽ phục sinh thân xác con người, như qua Kinh Tin Kính, chúng tôi tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy. Amen”… Thân xác tôi, thân xác con người, bề ngoài tựa như thân xác “kiếp sâu” với bộ mặt cuộc đời đau thương, sẽ có ngày hoá kiếp thành “Bướm đẹp trong Huy Hoàng Phục Sinh”.
Trong Ánh sáng “Tin Yêu Chúa Kitô Phục Sinh”, trong niềm kính tin “Mầu nhiệm Phục sinh của thân xác”, tôi nhìn nhận được cuộc đời cùng mọi sự với một niềm phấn khởi chân thật: “Thân xác con người, tự bản tính, có giá trị cao đẹp của nó; và Thiên Chúa không bao giờ phải thẹn thùng hối hận vì đã sinh ra thân thể con người, như Huy Cận cảm nghĩ”. Quả vậy, chính Chúa đã yêu thương tạo dựng thân xác con người, tự tay nắn đúc và ban cho hơi thở Tình Yêu của Ngài làm sức sống (x. St 1,26-27; 2,7). - Chúa đã cho Con Một nhập thể, mang thân xác con người, dùng thân xác như phương tiện cụ thể “bày tỏ Tình Yêu Thương”: Chúa Kitô đã dùng thân xác sống “cuộc sống chia sẻ thân phận bình thường con người” âm thầm tại Nazareth 30 năm, đã dùng thân xác để giảng dạy, săn sóc, công bố Tin Mừng 3 năm; dùng thân xác để chịu chết, như “bằng chứng tuyệt vời của Tình Yêu” đối với “con cái loài người”, dâng mình làm Của Lễ Ðền Tội trên Thánh Giá; đã phục sinh Thân Xác Ngài và đưa Thân Xác với tất cả “dấu tích thương khó” về Trời như “Kỷ Niệm vàng ngọc của kiếp người”. Ngài đã dùng Thân Xác lập Phép Thánh Thể, Bí tích Tình Yêu, ở lại với loài người hằng ngày, qua mọi thế hệ, cho đến tận thế…
Thân xác con người, như vậy, thật đáng quy trọng, và “con người phải kính trọng thân xác mình theo Thánh Ý Thiên Chúa” (1 Cr 6,15). Thân xác Kitô hữu còn đáng kính trọng hơn nữa, vì là “Ðền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1 Cr 6,19), là “Phần Thân Thể của Chúa Kitô” (1 Cr 6,15). Thân xác Kitô hữu được xức đầu “thánh hiến” khi lãnh nhận Bí tích Tái Sinh, để trở thành “đồ đệ thân thương của Chúa Kitô, con dấu yêu của Cha trên Trời”…
Thật ra, tôi vẫn thấm thía cảm nếm “hạnh phúc được làm Kitô hữu”, thấm thía suy gẫm suy gẫm lời tâm nguyện của Thánh Phaolô: “Dù tôi sống hay tôi chết, ước chi vinh quang Chúa Kitô được rạng ngời qua thân xác tôi” (Pl 1,20). Người cảm nhận: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Ðối với tôi, Thánh Phaolô là “kiểu mẫu Kitô hữu thực thụ”. Là Kitô hữu, chúng tôi ước ao theo gương ngài: để Chúa Kitô sống động qua con người Kitô hữu chúng tôi, để Ngài dùng “con người hữu hình” chúng tôi để tiếp tục sứ mệnh yêu thương giữa anh em loài người…
Ðã có lần “xúc động về hạnh phúc được làm Kitô hữu”, qua một “bài chia sẻ” mang tựa đề “Cho Chúa Mượn” gửi lên mạng, tôi đã sung sướng hô lên:
Ôi Kitô hữu, hãy hiên ngang!
Ôi “Lòng diễm phúc”, hãy lâng lâng:
“Con Người mình đây” có Chúa ngự,
“Chúa sống qua ta” mọi nẻo đường!
Tôi tự nhủ: hãy cho Chúa mượn “con người mọn hèn” của mình, rồi sẽ được Chúa trả lại cho “con người vinh quang” thấm đượm Vinh Quang Thánh Thiện của Ngài:
- cho Chúa mưọn đôi tay để đỡ đần săn sóc…
- cho Chúa mượn đôi chân để đi lại viếng thăm…
- cho Chúa mượn đôi mắt để nhìn mọi người “anh chi em” với tình thương cảm…
- cho Chúa mượn miệng lưỡi để nói những lời ủi an…
- cho Chúa mượn đôi môi để mỉm cười chứa chan hy vọng, mời gọi sống dậy những cõi lòng tuyệt vọng...
Mỗi lần dự Tiệc Thánh, rước lễ, tôi cảm động cảm tạ về “Ơn được làm Kitô hữu”, được đón nhận Thánh Thể Chúa, được Thánh Thể thấm tháp vào “con người Kitô hữu” của mình… Lòng tôi phấn khởi nhớ đến lời Ngài tuyên hứa hôm nào:
“Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời,
Và Ta, Ta sẽ cho kẻ đó phục sinh trong ngày tận thế”
(Ga 6,54).
Ngày tận thế, ngày “tận cùng mọi kiếp người trần gian”
Ngày Chúa tuyên dương thân xác con người.
cho những ai sống tin yêu Chúa Kitô Phục Sinh.
Dĩ nhiên, mức độ vinh quang tuỳ thuộc mức độ “sống tin yêu” của cuộc đời mỗi người (x. 2 Cr 5,10; Mt 25,31-46; Kh 20,12).